An cư kiết hạ có ý nghĩa rất lớn đối với hàng xuất gia lẫn tại gia. Đó là thời điểm chư Tăng Ni dành trọn thời gian cho việc tu học, thúc liễm thân tâm, trau giồi Giới-Định-Tuệ,là cơ hội cho hàng Phật tử tại gia phát tâm gieo trồng ruộng phước thông qua việc cúng dường.
Duyên khởi pháp An cư kiết hạ
Sự việc này đã khiến dân chúng và các giáo phái ngoại đạo kịch liệt chỉ trích: “Làm thế nào có thể những Sa-môn, con trai của dòng họ Thích Ca đi về trong mùa đông, mùa hè và cả trong mùa mưa, họ chà đạp xuống thảm cỏ xanh, làm bị thương, giết hại nhiều sinh vật’? “Đến mùa mưa, chim, kiến còn biết làm tổ để trú mưa, các đệ tử Sa môn Cồ Đàm cứ đi mãi và giậm phải côn trùng”. Sự kiện này được trình báo lên đức Phật, thế rồi ngài dùng huệ nhãn để quán xét và nhận thấy nhân duyên đã đến, nên ban hành pháp An cư Kiết vũ hằng năm để những người xuất gia hành trì có an lạc. Ngài dạy: “Nay Tôi quy định, các Tỳ kheo phải kiết túc an cư trong ba tháng mùa mưa. Từ đó về sau truyền thống an cư được thực hiện đều đặn hằng năm trong Tăng đoàn và đã mang lại nhiều lợi lạc không chỉ cho hành giả an cư mà còn cho hàng Phật tử tại gia.
An cư kiết hạ là gì?
Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Sớ quyển 4, giải thích nghĩa chữ an cư như sau: ‘Thu nhiếp thân tâm yên tĩnh là an, thời kì phải ở lại là cư’. Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: ‘Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An’. An cư cũng có nghĩa là ‘an kỳ tâm, cư kỳ thân’, tức thân ở yên một chỗ và tâm được an lạc, thanh tịnh gọi là an cư.
Trong thời gian ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ thì chư Tăng không được đi hành hóa các nơi, hơn nữa do vì trong thời gian nầy các loại cây cỏ, côn trùng phát sinh, nên để đừng sát thương các vật đó, hàng đệ tử Phật thường tập trung lại một nơi, cấm túc, đặt ra quy chế tọa Thiền tu học trong suốt ba tháng an cư.
Ý nghĩa của An cư kiết hạ
Ba tháng an cư kiết hạ có ý nghĩa rất lớn đối với hàng xuất gia lẫn tại gia. Đó là thời điểm chư Tăng Ni dành trọn thời gian cho việc tu học, thúc liễm thân tâm, trau giồi Giới-Định-Tuệ, đồng thời đây cũng là cơ hội cho hàng Phật tử tại gia phát tâm gieo trồng ruộng phước thông qua việc cúng dường, ngoại hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho chư Tăng Ni an cư tu học.
Hàng năm đến mùa An cư, chư Tăng Ni tạm gác lại các Phật sự bận rộn như du hóa, hoằng pháp, hoạt động xã hội, từ thiện, vân tập về một trú xứ để chuyên tâm tu học. Trong ba tháng an cư chư Tăng Ni hạn chế mọi tiếp xúc bên ngoài, không bị ngoại duyên chi phối hay làm ảnh hưởng. Những hành giả xuất gia thực hiện phận sự an cư tinh tấn trong việc học pháp, hành pháp, nghiêm trì giới luật sẽ khiến cho công đức, giới hạnh, đạo lực tăng trưởng, xứng đáng là nơi nương tựa và là phước điền của hàng Phật tử tại gia.
Tuy việc hoằng pháp, từ thiện, lợi tha là sứ mệnh của người xuất gia, nhưng không vì thế mà chư Tăng Ni không chú trọng đến sự nghiệp trí tuệ và mục đích cứu cánh giải thoát (tự độ) của mình. Nếu không có đầy đủ trí tuệ và công đức phước báo thì khó có thể làm nơi nương tựa, làm ngọn đuốc soi đường cho hàng Phật tử tại gia. Vì thế người xuất gia luôn hướng đến sự song hành giữa tự độ và độ tha, giữa tự giác và giác tha để thành tựu giác hạnh viên mãn như chư Phật.
Từ thời Phật còn tại thế, hàng năm Tăng đoàn đều an cư vào mùa mưa với nhiều lý do, như khó thực hiện công việc du hóa hoằng pháp trong mùa mưa (mưa gió, thời tiết khắc nghiệt, đường sá bùn sình lầy lội, ngập nước khó đi, nhiều loài côn trùng, bò sát sinh sôi nảy nở có thể gây hại, không có nơi trú ngụ khi mưa gió trên đường khất thực, du hóa…); vì lòng từ bi thương tưởng đến các loài côn trùng, các sinh vật nhỏ bé sinh trưởng trong mùa mưa nên không đi lại để tránh giẫm đạp gây hại cho chúng; tránh những chỉ trích và đàm tiếu của ngoại đạo; nhưng điều quan trọng nhất vẫn là mục đích thúc liễm thân tâm, trau giồi tam vô lậu học Giới-Định-Tuệ, tấn tu đạo nghiệp.
Bình thường chư Tăng Ni được phân bố đi khắp nơi để hoằng hóa, ngày ngày các vị ấy trì bình khất thực trong làng mạc, phố thị, đến từng nhà, không phân biệt nhà nào, không phân biệt giai cấp, thành phần nào trong xã hội để quảng kết thiện duyên và làm phước điền cho những ai phát tâm, đồng thời thuyết pháp độ sinh, mang lại niềm tin thanh tịnh và trí tuệ giải khổ cho mọi người. Thời gian còn lại các vị ấy dành cho việc nghe Đức Phật hoặc các vị Trưởng lão giảng pháp và tu tập thiền định, trí tuệ. Có nhiều vị được Đức Phật phái đi hoằng pháp ở những nơi xa, thuộc xứ khác hoặc quốc gia khác. Cũng như ngày nay, ngoài việc tu học, chư Tăng Ni còn làm các công tác hoằng pháp trong nước hoặc nước ngoài như tổ chức các khóa tu, thuyết pháp, giảng kinh, phiên dịch, in ấn phổ biến Chánh pháp, hoạt động từ thiện, an sinh xã hội…
Đến kỳ an cư, chư Tăng Ni từ khắp nơi dừng việc du hóa, quay về một trú xứ mà ngày nay gọi là“Tịnh nghiệp đạo tràng” hay ‘Đạo tràng an cư kiết hạ”, đó là một ngôi tùng lâm, già-lam, tịnh xá, tu viện để tu học.
An cư kiết hạ cũng là hoạt động củng cố và duy trì nguồn nội lực sau những ngày tháng dấn thân phụng sự đạo pháp, phụng sự chúng sinh. Trong những tháng ngày cấm túc an cư, chư Tăng Ni chẳng những được bồi dưỡng, phát triển trình độ tu học Phật pháp, tăng trưởng công đức, giới hạnh, đạo lực, mà còn có dịp thực hành đời sống tập thể theo tinh thần lục hòa, có cơ hội trao đổi sẻ chia những kiến giải, kinh nghiệm tu hành, đồng thời thể hiện tình huynh đệ, tinh thần hòa hợp như nước với sữa.
Truyền thống an cư được chư Tăng Ni gìn giữ cho đến ngày nay để làm nòng cốt cho sự tu học và duy trì nội lực Chánh pháp. Đây cũng là một hoạt động mang tính đặc trưng của đạo Phật. Một số tôn giáo, giáo phái khác từ xa xưa và hiện nay cũng có thời điểm “bế quan”, “cấm túc” để tịnh tu trong một thời gian nhất định, tuy nhiên về hình thức và nội dung của hoạt động đó không mang ý nghĩa đặc thù như an cư kiết hạ của người tu Phật.
Giá trị của sự tu tập, trau giồi giới đức, phạm hạnh và tăng trưởng đạo lực, thể nghiệm chân lý thật khó có thể nghĩ bàn. Ngay cả Đức Phật và các vị Thánh đệ tử, những bậc đã chứng đạo, thành tựu mục tiêu rốt ráo là giác ngộ, giải thoát, Niết-bàn, luôn luôn an trú trong chánh niệm, thiền định và sống bằng tuệ giác, các Ngài vẫn thường quan tâm đến nền nếp đạo đức và làm tấm gương nghiêm trì giới pháp, luật nghi, tinh tấn thực hành đạo đức, phạm hạnh cho hàng Phật tử noi theo, làm nơi nương tựa cho quần chúng, dùng thân giáo, khẩu giáo để phát huy tinh thần hoằng pháp, lợi lạc chúng sinh.
Thời Phật còn tại thế, dù Tăng đoàn được sự dẫn dắt trực tiếp của Đức Phật và các vị Thánh tăng Đại đệ tử, song chư Tăng Ni thời bấy giờ vẫn không xem nhẹ tác dụng, ý nghĩa, giá trị của việc an cư cấm túc hàng năm, của việc khép mình trong nền nếp Pháp và Luật, chuyên tu Giới-Định-Tuệ.
Noi theo đường hướng mà Đức Phật đã vạch ra, trên tinh thần “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”, chư Tăng Ni ngày nay tinh tấn tu hành trong mùa An cư kiết hạ để vun bồi công đức, phước báo, trí tuệ, nhằm thành tựu đạo quả giải thoát hầu làm nơi nương tựa cho đời, nâng cao năng lực hoằng hóa, rộng mở con đường lợi sinh.
Trên tinh thần hộ trì Tam bảo, học tập Phật pháp để tiến tu và vun trồng công đức, phước báo làm nền tảng cho an lạc hạnh phúc đời này và đời sau, hàng Phật tử tại gia, thiện nam, tín nữ hết lòng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho chư Tăng Ni an cư kiết hạ tu hành. Tất cả những việc làm của chư Tăng Ni và nam nữ Phật tử trong mùa An cư đều góp phần quan trọng trong việc duy trì mạng mạch Phật pháp và lợi lạc chúng sinh.
Tổng hợp